Bài 155: Sự Công Chính của Thánh Giuse nhìn từ biến cố Nhập Thể | Dưới ánh sáng Lời Chúa

Bài 155: Sự Công Chính của Thánh Giuse nhìn từ biến cố Nhập Thể | Dưới ánh sáng Lời Chúa

Bài 155: Sự Công Chính của Thánh Giuse nhìn từ biến cố Nhập Thể | Dưới ánh sáng Lời Chúa

TGPSG -- Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Vọng, năm A giới thiệu với chúng ta một gương mặt tiêu biểu của việc đón chờ Đấng Thiên Sai, đó là Thánh Giu-se. Tác giả Mát-thêu cho biết “ông Giu-se, chồng bà (Ma-ri-a), là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Đây chính là trọng tâm tìm hiểu của chúng ta trong bài học hỏi lần này qua chủ đề “Sự công chính của thánh Giu-se nhìn từ biến cố nhập thể”. Nội dung tìm hiểu gồm ba phần : (1) Tổng quan và điểm nhấn của trình thuật “truyền tin cho Thánh Giu-se” ; (2) Sự Công Chính của Thánh Giu-se ; (3) Vai trò và sự công chính của Thánh Giu-se nhìn từ biến cố nhập thể.

1. Tổng quan và điểm nhấn của trình thuật “truyền tin cho Thánh Giu-se”

Trình thuật “truyền tin cho Thánh Giu-se” đem lại cho chúng ta hai điểm nhấn quan trọng.

Thứ nhất, đây là trình thuật giải thích rõ nguồn gốc của sự kiện Đức Ma-ri-a thụ thai.

Thứ hai, Thánh Giu-se được mời gọi tham dự vào việc hoàn tất lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Cụ thể là việc Đấng Mê-si-a được sinh ra trong dòng dõi vua Đa-vít như chúng ta đọc thấy trong Bài Đọc Một trích sách ngôn sứ I-sai-a.

Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu như sau :

“Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18).

Thánh Mát-thêu cho thấy nỗi khó khăn mà cả Đức Ma-ri-a lẫn Thánh Giu-se phải đối diện ngay trong thời gian đính hôn : “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai [εὑρέθη ἐν γαστρὶ ἔχουσα - heurethê en gastri ekhusa, dịch sát là bà được thấy là có thai]”. Ở đây, tạm dùng từ “đính hôn”, nhưng chúng ta cần hiểu từ này trong bối cảnh xã hội Do thái thời xưa. Theo đó, cả Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se đều có nghĩa vụ ràng buộc như những người đã làm “lễ cưới”, đã “thành hôn” và phải giữ nghĩa vụ chung thủy với nhau. Chính vì thế mà Luật pháp Do-thái bấy giờ coi hai người “đính hôn” đã là “vợ chồng” rồi. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua cách dùng từ của Thánh Mát-thêu ở hai câu Tin Mừng tiếp theo :

Ông Giu-se, chồng [ὁ ἀνὴρ αὐτῆς - ho anêr autês], là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông [τὴν γυναῖκά σου - tên gunaika sou] về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,19-20).

Đọc tiếp đoạn Tin Mừng, chúng ta có thể nêu lên hai câu hỏi xoay quanh phản ứng của Thánh Giu-se : tại sao Thánh Giu-se lại “định tâm” bỏ Đức Ma-ri-a cách kín đáo ? Và nếu vậy thì Thánh Giu-se có thể chọn cách thức nào để thực hiện ý định của mình ?

Theo thủ tục Do-thái, có hai cách để người chồng rẫy vợ trong thời gian đính hôn : (1) Người chồng công khai tố cáo vợ mình ngoại tình (x. Đnl 22, 23-24) ; (2) Người chồng kín đáo trao cho vợ chứng thư ly hôn trước mặt hai nhân chứng. Cứ theo lẽ thường, rất có thể Thánh Giu-se đã muốn chọn giải pháp thứ hai.

Nói về lý do khiến Thánh Giu-se muốn bỏ Đức Ma-ri-a cách kín đáo, có hai giả thuyết đưa ra : (1) Thánh Giu-se không hề biết gì và rất bất ngờ vì sự thể xảy ra với Đức Ma-ri-a nên quyết định “chia tay” ; (2) Thánh Giu-se biết rõ sự tình nhưng không biết phải xử trí thế nào trước mầu nhiệm quá lớn lao này nên định rút lui khỏi cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, ngay trong thời khắc và tình huống nan giải này, chúng ta có cơ hội để nhận ra Sự Công Chính của Thánh Giu-se.

2. Sự Công Chính của Thánh Giu-se

Thánh Mát-thêu nói rõ, Thánh Giu-se “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Câu Kinh Thánh này minh nhiên cho thấy Thánh Giu-se là người công chính theo nghĩa “chính nhân quân tử”. Trên thực tế, rất có thể Thánh Giu-se đã nghĩ tới và chọn giải pháp âm thầm trao cho Đức Ma-ri-a chứng thư ly hôn trước hai nhân chứng rồi ra đi, như thế, vẫn giữ được thanh danh cho Đức Ma-ri-a, đồng thời vẫn tuân thủ đúng theo những gì luật pháp trù liệu.

Tuy nhiên, sự công chính của Thánh Giu-se chắc chắn không dừng lại ở nghĩa “công chính” theo lương tri thông thường này. Bài Đọc Một trích sách Ngôn Sứ I-sai-a hôm nay đưa chúng ta về khái niệm “công chính” của những người chờ mong Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Người. Tác giả Mát-thêu đã dẫn lại lời ngôn sứ I-sai-a (Is 7,14) qua miệng sứ thần Chúa và cho biết thái độ đón nhận của Thánh Giu-se :

Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,23-24).

Là người thuộc dòng dõi vua Đa-vít, hẳn là Thánh Giu-se cũng rất mong lời ngôn sứ được thành toàn. Như vậy, khi “làm như sứ thần dạy”, sự công chính của Thánh Giu-se được hiểu ở cấp độ cao hơn, đạt tới sự công chính của những người sẵn lòng cộng tác vào kế hoạch của Thiên Chúa. Quả thật, sự công chính của Thánh Giu-se được thể hiện rõ qua việc đáp lại lời Chúa phán qua miệng sứ thần :

Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít [Ἰωσὴφ υἱὸς Δαυίδ - Iôsêp huios David], đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su [καὶ καλέσεις τὸ ὄνομα αὐτοῦ Ἰησοῦν - kai kaleseis to onoma autou Iêsoun], vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21).

Danh “Giê-su” (Yeshua hay Yehoshua) vốn được hiểu theo nghĩa “Đức Chúa là ơn cứu độ” hay “Đức Chúa cứu chuộc” (x. Hc 46,1). Danh xưng này cũng phù hợp với vai trò của Đức Giê-su trong việc cứu độ dân Người khỏi tội lỗi, như đã được nêu lên ở phần đầu và phần cuối sách Tin Mừng Mát-thêu (x. Mt 1,21 ; 26,28).

Hơn thế nữa, việc Thánh Giu-se làm theo lời Sứ Thần Chúa dạy là hành vi “công chính nhờ tin” mà sau này được Thánh Phao-lô khai triển trong đạo lý “người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 3,22). Trong Bài Đọc Hai, Thánh Phao-lô cũng trình bày tổng quát nền tảng này như sau :

Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su ; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít [ἐκ σπέρματος Δαυὶδ - ek spermatos David]. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng” (Rm 1,1-4).

Thánh Phao-lô muốn trình bày về đức tin và ơn cứu độ. Tin vào Đức Giê-su Ki-tô là người (xuất thân từ dòng dõi Đa-vít) và tin vào Người là Con Thiên Chúa, đã được thể hiện rõ trong thái độ, hành vi và cuộc đời công chính của Thánh Giu-se.

3. Vai trò và sự công chính của Thánh Giu-se nhìn từ biến cố nhập thể

Sự công chính của Thánh Giu-se được thể hiện qua vai trò là “chồng của bà Ma-ri-a” (Mt 1,16 ; x. 1,19-20) và là cha của Đức Giê-su. Việc thành hôn, và sau đó là “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24) rồi “đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (Mt 1,25) là những bước kiến tạo nền tảng cho một gia đình, một dòng dõi và một “dân thánh” được Đức Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Mát-thêu cũng như các tác giả Tin Mừng khác đều cho biết mọi người đã nhìn nhận Đức Giê-su là “con ông Giu-se” (Mt 13,55 ; Mc 6,3 ; Lc 4,22 ; Ga 6,42).

Từ phản ứng định bỏ Đức Ma-ri-a cách kín đáo đến việc thực thi lời thiên sứ, chúng ta thấy Thánh Giu-se có bước chuyển dịch từ lãnh vực công chính xét theo lẽ công bằng (không nhận về phần mình những gì không phải của mình) sang sự công chính theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Hạn từ “công chính” được sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng Mát-thêu, áp dụng cho những người mong chờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa (x. Mt 13,17 ; 23,29), hoặc cho các môn đệ sẽ được gia nhập Nước Thiên Chúa (x. Mt 13,43.49 ; 25,37.46).

Thực vậy, nhìn từ biến cố nhập thể trở về Cựu Ước, chúng ta thấy người công chính là người đi theo đường lối của Chúa, như sách Huấn Ca đã nêu gương các tổ phụ Nô-ê, Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, và ông Mô-sê (x. Hc 44,19–45,5). Tác giả thánh vịnh cũng ca ngợi người công chính vì họ “được đất hứa làm gia nghiệp” (Tv 37,29), “vươn lên tựa cây dừa tươi tốt” (Tv 92,13), được ánh sáng Chúa chiếu soi (x. Tv 112,4).

Tất cả những diễn tả và gương mẫu kể trên đều thấp thoáng trong cuộc đời Thánh Giu-se. Thánh nhân đi theo đường lối Chúa, chịu đựng thử thách, được gọi là “người công chính”, được nâng lên khỏi những ý định “phảng phất bi quan”, được Sứ Thần giải thích ý nghĩa của mầu nhiệm… Tin Mừng không ghi lại lời nói nào của Thánh Giu-se, nhưng sự công chính của người quả là hiển minh cho nhân loại luôn mãi.

Trước khi kết thúc buổi học hỏi Lời Chúa hôm nay, chúng ta cùng nhau đọc lại lời Thánh vịnh và Đáp ca của Chúa nhật IV Mùa Vọng này với tâm tình suy niệm về đề tài “người công chính” được Thiên Chúa Cứu Độ thưởng công xứng đáng, được “ở cùng Đức Chúa” và được “Đức Chúa ở cùng” như chính Thánh Giu-se :

Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài,
làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư.
Nền trái đất, Người dựng trên biển cả,
đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.
Ai được lên núi Chúa ?
Ai được ở trong đền thánh của Người ?
Đó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng.
Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.
Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp
(Tv 23,1-6).

bài liên quan mới nhất

bài liên quan đọc nhiều

Top